80s toys - Atari. I still have
CHATTHUGIAN.MOBIE.IN
kính chào qúy khách

TRANG CHỦ
Truyện Teen   Ngôn Tình   Đam Mỹ   Bách Hợp   Tử Vi   Truyện Tranh  
Facebook  Xổ Số  Dịch  Tải Game  Báo  Tiền Ảo Bitcoin 

  Những đứa con của nửa đêm


Phan_33

Tôi quan sát Padma; cơ bắp của cô có dấu hiệu co giật một cách lơ đãng. “Thử nghĩ xem,” tôi nói, “chuyện xảy ra với ông tôi chẳng phải rất kỳ quái hay sao? Thử so sánh nó với riêng sự thật về những om sòm rất thánh quanh vụ trộm một sợi tóc; bởi từng chi tiết của nó đều là thật, và nếu đem so sánh, thì cái chết của mọi ông già khác chắc chắn là hết sức bình thường.” Padma có vẻ thư giãn; cơ bắp cô phát ra tín hiệu cho tôi tiếp tục. Bởi vì tôi đã dừng lại ở Aadam Aziz quá lâu; có lẽ vì tôi sợ hãi điều tiếp theo tôi phải kể; nhưng mạc khải là điều không thể tránh khỏi.

Một thông tin cuối cùng: sau cái chết của ông tôi, Thủ tướng Jawaharhal Nehru lâm bệnh và không bao giờ hồi phục. Căn bệnh hiểm nghèo này rốt cuộc đã giết chết ông vào ngày 27 tháng Năm năm 1964.

Nếu lúc trước tôi không định làm anh hùng, Zagallo đã chẳng giật tóc tôi. Nếu tóc tôi vẫn còn nguyên vẹn, Keith Nội tiết với Perce Béo đã chẳng trêu tôi; Masha Miovic đã không dụ tôi đến chỗ mất ngón tay. Và từ ngón tay tôi trào ra dòng máu không-phải-Alpha-cũng-như-Omega, và đẩy tôi vào cảnh lưu đày; và ở nơi lưu đày trong tôi trỗi dậy niềm khao khát báo thù dẫn đến vụ sát hại Homi Catrack; và nếu Homi không chết, có lẽ cậu tôi sẽ không bước từ mái nhà ra giữa làn gió biển; và rồi ông tôi sẽ không tới Kashmir và bị vỡ vụn vì gắng sức leo lên đồi Sankara Acharya. Mà ông tôi lại là người sáng lập ra gia đình tôi, và số phận của tôi lại gắn liền, qua ngày sinh của tôi, với vận mệnh của đất nước tôi, mà người cha của đất nước này là Nehru. Cái chết cùa Nehru: liệu tôi có thể né tránh cái kết luận rằng, kể cả điều này, cũng là lỗi của tôi?

Nhưng giờ chúng ta trở lại với năm 1958; bởi vì vào ngày thứ ba mươi bảy của tang kỳ, sự thật, vốn hằng rình rập Mary Pereira – và do đó rình rập tôi – trong hơn mười một năm, cuối cùng đã được phơi bày; sự thật, trong hình hài một người đàn ông già, rất già, người mà mùi hôi thối của Địa ngục xộc thẳng vào cả hai lỗ mũi bị nghẹt của tôi, người bị rụng ngón tay ngón chân còn cơ thể thì tứ tung mụn nhọt và lỗ thủng, leo lên ngọn đồi hai tầng nhà chúng tôi, và từ vùng mây bụi hiện ra trước mắt Mary Pereira đang lau chùi những tấm mành sáo ở hiên nhà.

Tại đây, lúc này, ác mộng của Mary đã thành hiện thực; tại đây, hiện hình sau màn bụi, là hồn ma của Joe D’Costa, đang đi đến văn phòng ở tầng trệt của Ahmed Sinai! Như thể việc hiện thân trước Aadam Aziz là chưa đủ… “Arre, Joseph,” Mary rú lên, đánh rơi mảnh giẻ lau, “anh đi ngay đi! Đừng có đến đây! Đừng đem những khổ sở của anh đến làm phiền các sahib! Chúa ơi, Joseph, đi, đi mau, anh định giết tôi hôm này à!” Nhưng hồn ma đã đi đến con đường vào nhà.

Mary Pereira, bỏ mặc đám mành sáo, để kệ chúng treo xiên xẹo, lao vào trung tâm ngôi nhà, phủ phục dưới chân mẹ tôi – đôi tay nhỏ múp míp chắp lại cầu xin – “Begum Sahiba! Begum Sahiba, tha thứ cho con!” Và mẹ tôi, ngỡ ngàng: “Cái gì thế này, Mary? Ai làm gì cô nào?” Nhưng Mary không còn tâm trí để đối thoại, cô khóc lóc điên cuồng, nức nở: “Lạy Chúa giờ của con đã điểm, Bà kính mến, chỉ xin bà cho con ra đi yên ổn, đừng bắt con vào jailkhana[14]!” Rồi thì, “Mười một năm, thưa Bà, bà xem con có một lòng yêu quý nhà ta không, hở Bà, cả cậu bé mặt như trăng rằm kia nữa; nhưng giờ thì con xong rồi, con là đồ đàn bà xấu xa, con sẽ chết cháy dưới hỏa ngục! Funtoosh!” Mary rền rĩ, và một lần nữa, “Hết cả rồi; funtoosh!”

[14] Jail trong tiếng Anh nghĩa là nhà tù. Đây là một từ được Ấn hóa (jail + khana) và vẫn mang nghĩa này.

Tôi vẫn chưa đoán ra điều gì sắp đến; ngay cả khi Mary ôm choàng lấy tôi (giờ tôi đã cao hơn cô; nước mắt cô thấm ướt cổ tôi): “Ôi, baba, baba; hôm nay con phải biết một việc, một việc ghê gớm ta đã làm; nhưng giờ hãy theo ta…” và người đàn bà nhỏ bé ấy thẳng người đứng dậy với một khí phách phi thường,”… tôi sẽ nói ra tất cả trước tên Joseph ấy. Begum, các cháu, tất cả các ông các bà, xin mọi người vào văn phòng của sahib, và tôi sẽ nói.”

Đời tôi được đánh dấu bằng những lời tuyên bố công khai; Amina tại một con hẻm Delhi, còn Mary ở một văn phòng không ánh mặt trời… cả đại gia đình lũ lượt theo sau với vẻ ngỡ ngàng, tôi đi xuống lầu cùng Mary Pereira, người không ngừng nắm chặt tay tôi.

Thứ gì ở trong phòng với Ahmed Sinai? Thứ gì đã đem đến cho cha tôi một nét mặt trên đó tửu tinh và tiền bạc bị xua đi và thay thế bởi một cái nhìn của nỗi thống khổ cùng cực? Thứ gì ngồi rúm ró ở góc phòng, phả đầy mùi trứng thối vào không khí? Thứ gì, hình dáng tựa như người, mất ngón tay và ngón chân, gương mặt sùi bong bóng như suối nước nóng ở New Zeland (mà tôi đã thấy trong Cuốn sách Kỳ diệu về Những kỳ quan)?... Không còn thời gian giải thích nữa, vì Mary đã bắt đầu nói, líu ríu tiết lộ một bí mật được che giấu đã hơn mười một năm, lôi tất cả chúng tôi ra khỏi cõi mộng mà cô đã tạo nên khi tráo thẻ tên, đẩy chúng tôi vào nỗi kinh hoàng của sự thật. Và suốt khoảng thời gian ấy, cô ấp ủ tôi; như một người mẹ bảo vệ đứa con, cô che chắn tôi trước gia đình tôi. (Những người sắp sửa biết… cũng như tôi… rằng họ không phải là…)

… Lúc ấy vừa quá nửa đêm và ở ngoài đường họ bắn pháo hoa và tụ tập, con quái vật nhiều đầu gầm rú, tôi làm thế vì Joseph của tôi, sahib, nhưng xin đừng bắt tôi vào tù, thằng bé là một đứa trẻ ngoan, sahib, tôi là một người đàn bà khốn khổ, sahib, chỉ một sai lầm, chỉ một phút trong bấy nhiêu năm, đừng jailkhana mà sahib, tôi sẽ đi, mười một năm tôi cống hiến nhưng tôi sẽ đi ngay, sahib, chỉ có điều đây là một thằng bé ngoan, sahib, ngài không được đuổi nó đi, sahib, sau mười một năm nó là con trai ngài… Ôi, bé con có gương mặt như mặt trời mới mọc. Ôi bé Saleem mảnh trăng của ta, con phải biết rằng cha con là Winkie còn mẹ con đã qua đời…

Mary Pereira chạy ra khỏi phòng.

Ahmed Sinai lên tiếng, với một giọng xa xăm như tiếng chim: “Kia, trong góc nhà, là lão đầy tớ già Musa, kẻ từng một lần ăn cắp của ta.”

(Có câu chuyện nào chịu nổi nhiều thế từ sớm thế không? Tôi liếc sang Padma; xem ra cô bị choáng, như một con cá.)

Ngày xửa ngày xưa, có một người hầu, kẻ ăn cắp của cha tôi; kẻ thề rằng hắn vô tội; kẻ tự nguyện rằng bệnh hủi sẽ giáng xuống đầu nếu hắn là tên dối trá; kẻ đã bị chứng minh là nói dối. Hắn bỏ đi trong ô nhục; nhưng từ hồi đó tôi đã bảo hắn là một trái bom hẹn giờ, và hắn đã quay về để phát nổ. Quả thật, Musa đã mắc chứng hủi; và đã vượt qua sự im lặng suốt ngần ấy năm quay về xin cha tôi tha thứ, để lão được giải thoát khỏi lời nguyền tự gieo này.

… Một kẻ được gọi là Chúa dù không phải Chúa; một kẻ khác bị nhầm là ma, nhưng không phải ma; và một người thứ ba phát hiện ra rằng mặc dù tên hắn là Saleem Sinai, hắn không phải là con của cha mẹ hắn…

“Ta tha thứ cho ngươi,” Ahmed Sinai bảo lão hủi. Kể từ hôm đó, ông đã được chữa khỏi một trong các chứng ám ảnh của mình; ông không bao giờ cố gắng khám phá lời nguyền (hoàn toàn hư cấu) của dòng họ nữa.

“Tôi chẳng biết kể theo cách nào khác,” tôi bảo Padma. “Quá đau đớn; tôi đành huỵch toẹt ra, một cách nghe thật điên rồ, như vậy thôi.”

“Ôi, thưa ông,” Padma òa khóc nức nở, “Ôi, thưa ông, thưa ông!”

“Thôi nào,” tôi nói, “Chuyện qua đã lâu rồi.”

Nhưng nước mắt của cô không dành cho tôi, lúc này đây, cô đã quên mất thứ-gặm-mòn-xương-dưới-lớp-da; cô đang khóc vì Mary Pereira, người mà, như tôi đã nói, cô đã trở nên đặc biệt có cảm tình.

“Thế rồi cô ấy ra sao?” cô hỏi, mắt đỏ hoe. “Cô Mary ấy?”

Một cơn giận vô cớ bỗng siết chặt tôi. Tôi hét: “Cô đi mà hỏi cô ta!”

Hỏi cô ta đã về quê ở thành phố Panjim thuộc bang Goa ra sao, hỏi cô ta đã kể cho người mẹ già nua về câu chuyện nhục nhã của mình thế nào! Hỏi cô ta xem bà mẹ đã nổi điên khi biết về vụ tai tiếng ấy ra sao! (vừa khéo thay: đó là thời kỳ người già dễ mất đi óc minh mẫn)! Hỏi xem: cô con gái và bà mẹ có ra đường để tìm kiếm sự tha thứ? Có phải đấy là thời điểm mười năm một lần xác ướp của Thánh Francis Xavier (linh thiêng không kém sợi tóc của Đấng Tiên tri) được đem ra từ hầm mộ ở Nhà thờ Bom Jesus và diễu hành quanh thành phố? Có phải Mary và cụ bà Pereira quẫn trí đều phủ phục lên cỗ linh xa; có phải bà lão đã hóa dại vì đau khổ trước tội lỗi của con gái? Có phải bà Pereira, miệng than, “Ôi! Hỡi ôi! Ôi hỡi ôi!”, đã trầy trật trèo lên linh sàng nhằm hôn chân Đức Thánh? Giữa đám đông vô kể, có phải bà lão Pereira đã phát cơn cuồng đạo? Hỏi xem! Có hay không việc bà lão, trong cơn kích động điên cuồng, đã đặt môi quanh ngón cái của bàn chân trái của Thánh Francis? Hãy tự hỏi xem: có phải mẹ của Mary đã cắn đứt ngón chân ấy?

“Sao?” Padma rền rĩ, khiếp đảm trước cơn giận của tôi. “Sao, hỏi gì?”

… Và chuyện này có đúng không: có phải báo chí đã dựng chuyện khi đưa tin bà cụ đã bị thần linh trừng phạt; khi họ trích dẫn nguồn tin từ Giáo hội và các nhân chứng, mô tả cảnh bà cụ bị hóa đá ra sao? Không à? Hỏi cô ta xem có phải Giáo hội đã cho diễu bức tượng đá hình một bà già khắp các thành phố làng mạc ở Goa, cho tất cả thấy điều gì xảy đến với những kẻ mạo phạm “thánh thần”? Hỏi xem: có phải người ta đã trông thấy bức tượng cùng lúc tại mấy làng – và có phải thế là giả mạo, hay là một phép mầu còn lớn lao hơn?

“Ông thừa biết em chẳng hỏi ai được,” Padma tru tréo… nhưng tôi, cảm thấy cơn giận đã lắng xuống, sẽ không mạc khải gì nữa trong đêm nay.

Nói trắng ra thì: Mary Pereira rời bỏ chúng tôi, và đi về nhà mẹ ở Goa. Nhưng Alice Pereira vẫn ở lại; Alice tiếp tục làm việc ở văn phòng của Ahmed Sinai, đánh máy, đưa đồ ăn nhẹ và nước uống có ga.

Về phần tôi – khi tang kỳ của cậu Hanif kết thúc, tôi bước vào chuyến lưu đày thứ hai.

Chương 20: Cuộc hành quân của lọ gia vị

Tôi buộc lòng đi đến kết luận rằng Shiva, kình địch của tôi, người anh em tráo đổi của tôi, sẽ không được vào diễn đàn của tâm trí tôi nữa; vì những lý do tôi phải thừa nhận là thấp hèn. Tôi sợ hắn sẽ khám phá ra cái điều mà tôi biết chắc mình sẽ không giấu nổi hắn – bí mật về sự ra đời của chúng tôi. Shiva, người coi thế giới là vật chất, người cho rằng chỉ có thể kiến giải lịch sử như một cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ của cá-nhân-chống-lại-đám-đông, chắc chắn sẽ quyết tâm đòi lại quyền vị khi chào đời của hắn; và; khiếp đảm trước ý nghĩ gã địch thủ đầu gối gõ nhau sẽ thế chỗ mình tại căn phòng màu xanh của tôi thời thơ ấu, trong khi tôi, lẽ tất nhiên, phải rầu rĩ rời bỏ quả đồi hai tầng để đến với khu ổ chuột phía Bắc thành phố; nhất định không thừa nhận rằng lời tiên đoán của Ramram Seth là dành cho con trai của Winkie, rằng Shiva mới là người được Thủ tướng viết thư cho, và vì Shiva ngư phủ mới chỉ về phía biển… tóm lại, định cho mười một năm làm con của tôi một giá trị vượt xa huyết thống đơn thuần, tôi quyết rằng bản thể đối lập mang xu hướng hủy diệt và bạo lực của tôi sẽ không bao giờ được tham gia những cuộc họp ngày càng bè phái của Hội nghị Những đứa trẻ Nửa đêm nữa; rằng tôi sẽ bảo vệ bí mật của tôi – và đã từng của Mary - bằng cả tính mạng mình.

Thời kỳ này, có những đêm tôi tránh không nhóm họp Hội nghị gì cả - không phải vì sự chuyển hướng đáng thất vọng của nó, mà chẳng qua vì tôi biết, để dựng lên một rào chắn bao quanh hiểu biết mới của tôi và ngăn được lũ trẻ tiếp cận nó thì phải có thời gian, và máu lạnh; sau cùng, tôi đã tự tin là mình sẽ làm được… nhưng tôi lại sợ Shiva. Hung bạo và mạnh mẽ nhất trong Lũ trẻ, hắn sẽ đột nhập được vào nơi kẻ khác không vào được. Ở mọi hoàn cảnh, tôi né tránh các bạn thiếu niên đồng bào[1], và rồi đột nhiên tất cả trở nên quá muộn, bởi vì, sau khi đã lưu đày Shiva, tôi phát hiện ra mình cũng bị ném vào một chuyến lưu đày mà từ đó tôi không thể liên lạc với hơn năm trăm đồng nghiệp của mình nữa: tôi bị quẳng qua đường biên giới ra-đời-từ-Chia-cắt sang Pakistan.

[1] Fellow-Children đọc gần giống Fellow-Citizen (quốc dân đồng bào).

Cuối tháng Chín năm 1958, tang kỳ của cậu tôi Hanif Aziz đến hồi kết thúc; và kỳ diệu thay, đám mây bụi vẫn bao phủ chúng tôi được một trận mưa rào lành làm nắng xuống. Khi đã tắm rửa và mặc quần áo mới giặt và bật quạt trần lên, chúng tôi bước ra từ nhà tắm, lòng ngập tràn, trong chốc lát, một niềm lạc quan ảo tưởng của sự sạch sẽ còn tươi mùi xà phòng; và tìm thấy một Ahmed Sinai bụi bặm, chưa tắm rửa, tay cầm chai whisky, mắt vằn máu, ngả nghiêng leo từ văn phòng lên lầu dưới ách kiềm tỏa mê loạn của tửu tinh. Ông tiếp tục đánh vật, trong thế giới trừu tượng của riêng ông, với những hiện thực không ai ngờ nổi mà mạc khải của Mary đã giải phóng ra; và dưới tác động quắc cần câu của rượu, đã nổi một trận lôi đình khôn bề tả xiết mà ông trút lên, không phải Mary đã quay gót ra đi, cũng không phải đứa bé bị tráo ở bên ông, mà là mẹ tôi – hay, tôi nên gọi, là Amina Sinai. Có lẽ vì biết mình phải xin bà tha thứ, nhưng sẽ không làm, Ahmed Sinai rủa xả vợ hàng giờ trước sự choáng váng của gia đình bà; tôi sẽ không nhắc lại những cái tên ông đã gọi bà, hay những nẻo đường ti tiện ông khuyên bà nên chọn cho đời mình. Nhưng rốt cuộc Mẹ Bề trên là người đã ra tay can thiệp.

“Đã một lần, con gái ta,” bà lên tiếng, phớt lờ Ahmed vẫn đang lèm bèm,: “cha con và ta, cáigìkhôngbiết, nói rằng không có gì phải xấu hổ khi từ bỏ một kẻ không đáng mặt làm chồng. Giờ ta nói lại: con có, cáigìkhôngbiết, một người chồng ti tiện không lời nào tả xiết. Bỏ hắn đi; ngay hôm nay, và đem lũ trẻ, cáigìkhôngbiết, đi xa khỏi những lời chửi rủa mà hắn phun ra khỏi mép như thứ súc vật, cáigìkhôngbiết, đầu cống miệng rãnh. Ta nói, đưa lũ trẻ đi, cáigìkhôngbiết - cả hai đứa,” bà nói, ghì chặt tôi vào ngực. Một khi Mẹ Bề trên đã hợp pháp hóa tôi, chẳng có ai phản đối bà; giờ đây nhìn lại, sau nhiều năm, tôi thấy dường như cả người cha lèm bèm chửi bới của tôi cũng bị tác động bởi sự hậu thuẫn bà dành cho đứa bé thò lò mười một tuổi.

Mẹ Bề trên an bài tất cả; mẹ tôi giống như mát tít - đất sét của chợ gốm - dưới bàn tay toàn năng của bà. Thời điểm đó, bà tôi (tôi phải tiếp tục gọi bà như thế) vẫn tin rằng bà và Aadam Aziz sẽ sớm sang Pakistan định cư; vì vậy bà dặn dì Emerald đem tất cả chúng tôi theo – Amina, con Khỉ, tôi, kể cả mợ Pia - rồi đợi bà sang sau. “Chị em thì phải đùm bọc nhau, cáigìkhôngbiết,” Mẹ Bề trên bảo, “những khi hoạn nạn.” Dì Emerald khó chịu ra mặt; nhưng cả dì và Đại tướng Zulfikar vẫn tuân lời. Và, do cha tôi đang trong một tình trạng điên dại khiến chúng tôi lo sợ cho an toàn của mình, và vì nhà Zulfikar đã đặt vé trên một chuyến tàu nhổ neo đêm đó, tôi rời ngôi nhà đã gắn bó suốt đời ngày hôm ấy, để Ahmed Sinai lại một mình với Alice Pereira; bởi vì khi mẹ tôi rời bỏ người chồng thứ hai, tất cả người hầu cũng bỏ đi.

Ở Pakistan, giai đoạn phát triển vũ bão thứ hai của tôi kết thúc. Và, ở Pakistan: tôi phát hiện ra: không rõ vì sao sự tồn tại của đường biên giới đã “làm nhiễu” việc thu phát suy nghĩ của tôi với hơn-năm-trăm-đứa-trẻ; do đó, không chỉ một lần nữa bị lưu đày khỏi nhà mình, tôi còn bị lưu đày khỏi tặng vật trời ban cho chỉ tôi và chính tôi khi chào đời: món quà của những đứa trẻ nửa đêm.

Chúng tôi buông neo ngoài Rann xứ Kutch[2] vào một chiều oi bức, Cái nóng vo ve bên tai điếc của tôi; nhưng tôi quyết định ở lại trên boong, ngắm từng chiếc ghe nhỏ, phảng phất báo điềm gở và dhow của dân chài làm dịch vụ chở hàng giữa tàu của chúng tôi và Rann, vận chuyển những đồ vật phủ bạt đen qua lại, qua lại. Dưới khoang tàu, người lớn chơi bài bingo; tôi chịu không rõ con Khỉ đang ở đâu. Đây là lần đầu tiên tôi đi tàu thật sự (mấy lần lên thăm tàu chiến Mỹ ở cảng Bombay chỉ là đi tham quan, không tính; chưa kể sự bối rối khi đi cùng hàng chục bà bầu bụng chửa vượt mặt, những người luôn tham gia những đoàn du khách này với hy vọng mình sẽ lâm bồn và sinh ra những đứa trẻ co tư cách mang quốc tịch Mỹ, do ra đời trên biển). Tôi chăm chú nhìn Rann qua màn hơi nóng. Rann xứ Kutch… Tôi luôn nghĩ đó là một cái tên huyền bí, và nửa-sợ-nửa-mong được đến đây, khu vực tắc kè hoa nửa năm là đất còn nửa năm là biển này, nơi người ta đồn rằng đại dương khi rút đi sẽ bỏ lại đủ thứ phế tích kỳ dị, như rương châu báu, xác sứa trắng như ma, và đôi khi cả những hình thù quái dị-truyền kỳ còn ngáp ngoải của nhân ngư. Lần đầu chiêm ngưỡng dải đất lưỡng thê này, vũng lầy của ác mộng này, đáng lẽ tôi phải cảm thấy hưng phấn; nhưng oi bức và những sự kiện vừa qua vẫn làm tâm tình tôi trĩu nặng; môi trên của tôi hãy còn ướt nước mũi như con nít, nhưng tôi đã bị đè nặng bởi xúc cảm của việc bước từ một thời thơ ấu quá dài và thò lò mũi xanh sang tuổi trưởng thành quá sớm (tuy còn chảy mũi). Giọng tôi trầm xuống; tôi phải bắt đầu cạo râu; và mặt tôi lấm chấm nốt máu ở chỗ dao cạo đã gọt đi những đầu trứng cá… người quản lý đi qua bảo tôi, “Nên xuống dưới thì hơn, con trai. Giờ này đang nóng nhất đấy.” Tôi hỏi về những chuyến ghe chở hàng. “Tiếp tế ấy mà,” ông ta đáp rồi bỏ đi, để tôi lại ngẫm nghĩ về một tương lai chả có gì đáng mong đợi, ngoài sự hiếu khách miễn cưỡng của Đại tướng Zulfikar, kiểu tự mãn hợm hĩnh của dì Emerald, người không nghi ngờ gì sẽ thích thú phô trương sự thành đạt và địa vị trần tục của mình với bà chị gái đau khổ và bà chị dâu góa bụa, và thái độ vênh váo đầu teo chân tay to của Zafar con họ… “Pakistan”, tôi nói to, “Đúng là cái xứ rác rưởi!” Thế mà chúng tôi thậm chí còn chưa đến nơi… Tôi nhìn đoàn ghe, chúng như đang chèo xuyên qua màn sương váng vất. Boong tàu dường như cũng lắc lư dữ dội, mặc dù trời đang gần như lặng gió; và dù tôi cố bám vào lan can, sàn tàu vẫn quá nhanh so với tôi: nó lao đến và đập thẳng vào mũi tôi.

[2] Rann trong tiếng Hindi là hoang mạc. Rann of Kutch là vùng đồng lầy ngập mặn lớn, nằm vắt qua biên giới giữa tỉnh Kutch ở bang Gujarat thuộc Ấn Độ và tỉnh Sindh của Pakistan.

Tôi đã tới Pakistan như vậy đấy, với một cơn say nắng nhẹ để bổ sung cho hai bàn tay trắng, và kiến thức về sự ra đời của mình; mà tên của con tàu là gì nhỉ? Đôi tàu chị em nào dạo ấy vẫn chạy tuyến Bombay và Karachi trước khi chính trị chấm dứt hành trình của chúng? Tàu của chúng tôi là S.S.Sabarmati; chiếc chị em của nó, vừa qua mặt chúng tôi trước khi tàu cập cảng Karachi, là Sarasvati. Chúng tôi cưỡi động cơ hơi nước đi đày trên con tàu mang tên viên Trung tá, một lần nữa cho thấy ta không thể nào thoát khỏi sự trùng hiện.

Chúng tôi đến Rawalpindi trên một chuyến tàu nóng, bụi mù. (Viên Tướng và Emerald đi khoang Có Điều Hòa; họ mua cho chúng tôi vé hạng nhất bình thường.) Nhưng khi đến Pindi trời đã mát và tôi đặt chân, lần đầu trong đời, đến một thành phố miền Bắc… Tôi nhớ đấy là một đô thị hạng thấp, không có gì nổi bật; trại lính, hàng hoa quả, một ngành sản xuất đồ thể thao; những người nhà binh cao lớn ngoài phố; xe Jeep; thợ khắc gỗ; polo[3]. Một thành phố có thể trở nên rất, rất lạnh. Và trong một khu quy hoạch đô thị mới và đắt đỏ, một tòa nhà đồ sộ có tường cao cắm dây thép gai bao quanh và lính gác đi tuần: nhà của Đại tướng Zulfikar. Cạnh chiếc giường đôi của đức ông Đại tướng có một bồn tắm; trong nhà có một khẩu lệnh: “Chấn chỉnh lại đi!”; người hầu mặc quân phục và đội mũ nồi xanh; buổi tối mùi bhang và chara[4] bốc lên từ nơi ở của họ. Đồ đạc trong nhà đắt tiền và đẹp một cách bất ngờ; thẩm mỹ của Emerald không chê vào đâu được. Đây là một ngôi nhà ảm đạm, thiếu sinh khí, vì cái không khí nhà binh của nó; kể cả lũ cá vàng trong bể ốp tường ở phòng ăn dường như cũng nhả bong bóng một cách uể oải; có lẽ cư dân thú vị nhất của tòa nhà thậm chí không phải là người. Quý vị chắc sẽ cho phép tôi, trong giây lát, mô tả về con chó Bonzo của ngài Đại tướng. Xin lỗi: con chó cái già săn thỏ của ngài Đại tướng.

[3] Môn thể thao du nhập từ Anh, luật giống khúc côn cầu, nhưng người chơi cưỡi ngựa và thi đấu trên cỏ.

[4] Bhang là hỗn hợp lá và hoa của cây cannabis (còn gọi là marijuana) cái, dùng làm thuốc hút hoặc đồ uống. Charas là chiết xuất nhựa cây cannabis, dùng làm thuốc phiện.

Sinh vật già nua mong manh bị bướu cổ này đã sống một đời cực kỳ lười nhác và vô dụng; nhưng trong lúc tôi hồi phục sau cơn say nắng, nó đã là tác giả vụ náo nhiệt đầu tiên từ khi chúng tôi ở đây - một kiểu trailer[5] cho “cuộc cách mạng của lọ gia vị”. Một hôm Đại tướng Zulfikar đưa nó tới thao trường, nơi ông ta sẽ quan sát một nhóm lính dò mìn thao diễn tại một bãi mìn được chuẩn bị đặc biệt. (Đại tướng khao khát cho rải mìn toàn bộ biên giới Ấn-Pak. “Chấn chỉnh lại đi!” ông ta sẽ quát. “Hãy cho bọn Hindu ấy có cái mà lo sợ! Ta sẽ cho lũ xâm lược ấy nổ tan xác, chẳng còn quái gì mà đầu thai nữa.” Tuy nhiên, ông ta không đặc biệt quan tâm tới biên giới Đông Pakistan, với quan điểm là “lũ mọi đen ấy tự biết lo thân.”)… Và lúc này Bonzo giằng tuột dây, và bằng cách nào đó thoát khỏi những bàn tay hớt hải vồ bắt của đám jawan trẻ, lạch bạch đi vào bãi mìn.

[5] Một đoạn phim ngắn, đóng vai trò giới thiệu, quảng bá cho một bộ phim sắp được công chiếu.

Kinh hoàng tột độ. Toán lính mìn dò dẫm như một đoạn phim quay chậm đầy khiếp đảm ra khỏi vùng phát nổ. Tướng Zulfikar và các sĩ quan hụp xuống nấp sau đài quan sát, chờ đợi vụ nổ… Nhưng chẳng có gì; và khi những tinh hoa của Quân đội Pakistan từ trong thùng rác hay sau băng ghế ló ra, họ thấy Bonzo tao nhã bước đi giữa thửa ruộng gieo toàn hạt chết chóc, mũi gí sát đất, Bonzo-kẻ-vô-ưu, rất đỗi ung dung. Đại tướng Zulfikar ném chiếc mũ lưỡi trai lên trời. “Quá tuyệt vời!” ông ta kêu lên bằng cái giọng mỏng quẹt len từ giữa mũi và cằm ra, “Lão phu nhân đây đánh hơi được mìn!” Bonzo được tuyển mộ ngay lập tức vào quân ngũ, giữ vai trò lính-dò-mìn-bốn-chân mang quân hàm thượng sĩ.

Tôi đề cập đến thành tích của Bonzo vì nó cho Đại tướng cây gậy để đả chúng tôi. Đám người nhà Sinai chúng tôi – và Pia Aziz – là những thành viên vô tích sự, năng suất lao động bằng không trong gia đình Zulfikar, và Đại tướng không muốn chúng tôi quên điều đó. “Đến một con chó săn thỏ già cốc đế còn biết tự nuôi thân,” chúng tôi nghe được ông ta lẩm bẩm, “thế mà nhà này lại đầy những kẻ không biết tự chấn chỉnh bản thân cho ra hồn.” Nhưng trước khi tháng Mười kết thúc ông ta sẽ phải biết ơn (ít nhất là) về sự có mặt của tôi… và sự lột xác của con Khỉ cũng không còn xa nữa.

Bọn tôi đi học cùng ông em họ Zafar, cái thằng không còn háo hức cưới em gái tôi lắm nữa khi chúng tôi nay đã là con một gia đình đỗ vỡ; nhưng vụ mất mặt nhất của nó xảy ra vào một cuối tuần khi chúng tôi được đưa đến căn nhà nghỉ trên núi của Đại tướng ở Nathia Gali, trên Murree một quãng. Tôi đang trong tình trạng rất hưng phấn (bệnh của tôi mới khỏi): núi non! Biết đâu sẽ có cả báo! Trời lạnh và rét buốt! – vì thế tôi chẳng nghĩ ngợi gì khi Đại tướng hỏi tôi có thể ngủ chung giường với Zafar không, và thậm chí không đoán ra khi họ trải một tấm cao su trên đệm… Tôi tỉnh giấc sau nửa đêm giữa một vũng tướng chất lỏng âm ấm, khai nồng và bắt đầu la cứu mạng. Ngài Đại tướng xuất hiện bên giường và bắt đầu đánh thằng con tơi bời hoa lá. “Mày lớn bằng này rồi! Khốn kiếp! Vậy mà mày vẫn thế! Chấn chỉnh lại đi! Đồ vô dụng! Có ai cư xử khốn nạn như mày không? Chỉ lũ hèn nhát mới thế! Trời nguyền rủa tao nếu tao có thằng con hèn nhát…” Tật đái dầm của Zafar em họ tôi, tuy vậy, tiếp tục là nỗi hổ thẹn của gia đình; bất chấp đòn roi, chất lỏng ấy vẫn chảy dọc chân nó; và một hôm điều này xảy ra lúc nó đang thức. Nhưng đấy là sau khi một số nước đi nhất định đã, nhờ sự phụ tá của tôi, được thực hiện bằng lọ gia vị, cho tôi thấy tuy ở đất nước này sóng ngoại cảm bị nhiễu, các chế độ liên kết hình như vẫn vận hành; một cách chủ động-nghĩa đen cũng như nghĩa bóng, tôi đã góp phần thay đổi vận mệnh của Xứ Sở của những kẻ Thuần Khiết.

Con Khỉ Đồng và tôi, ngày ấy, là những nhân chứng bất lực trước cảnh mẹ tôi ngày một héo hon. Bà, người luôn cần mẫn trong cái nóng, đã bắt đầu héo tàn dưới cái lạnh phương Bắc. Bị tước đi hai người chồng, bà đồng thời bị tước đi (trong mắt bà) ý nghĩa cuộc sống; rồi còn có một mối quan hệ cần vun đắp lại, giữa mẹ và con trai. Một đêm bà siết chặt tôi và nói, “Yêu thương, con ta, là một điều người mẹ học được; nó không ra đời cùng đứa trẻ, mà hun đúc theo thời gian; và trong mười một năm, mẹ đã học yêu con như con trai của mẹ.” Nhưng đằng sau vẻ dịu dàng của bà là một sự xa cách, như thể bà đang thuyết phục chính mình… cũng sự xa cách này, trong tiếng thì thào nửa đêm của con Khỉ, “Ê, anh trai, hay mình đổ nước lên thằng Zafar – mọi người sẽ nghĩ là nó đái dầm?” – và chính cảm giác về khoảng cách này đã cho tôi thấy rằng, dù gọi tôi bằng con trai và anh trai, óc tưởng tượng của họ phải nỗ lực để tiêu hóa lời thú tội của Mary; khi đó chưa biết rằng họ sẽ không thể thành công trong việc tái định hình anh trai và con trai, tôi vẫn khiếp sợ Shiva; và do đó bị nhấn càng sâu hơn vào trái tim ảo tưởng của nỗi khát khao chứng tỏ tôi xứng đáng với tình ruột thịt của họ. Bất chấp sự công nhận của Mẹ Bề trên, tôi chưa từng thấy yên lòng cho đến khi, trên một hiên nhà sau-đó-hơn-ba-năm, cha tôi bảo, “Lại đây, con trai; lại đây để ta yêu con.” Có lẽ vì vậy nên tôi đã xử sự như thế vào cái đêm 7 tháng Mười năm 1958.


Phan_1
Phan_2
Phan_3
Phan_4
Phan_5
Phan_6
Phan_7
Phan_8
Phan_9
Phan_10
Phan_11
Phan_12
Phan_13
Phan_14
Phan_15
Phan_16
Phan_17
Phan_18
Phan_19
Phan_20
Phan_21
Phan_22
Phan_23
Phan_24
Phan_25
Phan_26
Phan_27
Phan_28
Phan_29
Phan_30
Phan_31
Phan_32
Phan_34
Phan_35
Phan_36
Phan_37
Phan_38
Phan_39
Phan_40
Phan_41
Phan_42
Phan_43
Phan_44
Phan_45
Phan_46
Phan_47
Phan_48
Phan_49
Phan_50
Phan_51
Phan_52
Phan_53 end
Phan_gioi_thieu
Nếu muốn nhận thông tin bài viết mới của trang thì like ở dưới hoặc truy cập trực tiếp CLICK

TRANG CHỦ
Truyện Teen   Ngôn Tình   Đam Mỹ   Bách Hợp   Mẹo Hay   Trà Sữa   Truyện Tranh   Room Chat   Ảnh Comment   Gà Cảnh   Hình Nền   Thủ Thuật Facebook  
Facebook  Tiện Ích  Xổ Số  Yahoo  Gmail  Dịch  Tải Opera  Đọc Báo 

Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian

C-STAT .